BÀI DỰ THI HƯỚNG NGHIỆP LỚP 9/5

NGHỀ: " BỘ ĐỘI BIÊN PHÒNG VIỆT NAM "

    Trong quá trình hội nhập và phát triển. Mỗi người đều có một sự lựa chọn và định hướng nghề nghiệp riêng cho bản thân mình . Hầu hết các bạn học sinh ngày nay thường chọn những ngành nghề như: kinh tế, sư phạm, luật,… Bên cạnh đó có một số ngành mà các bạn rất ít quan tâm, đặc biệt là các bạn nữ như: công an, hải quân, biên phòng,.. Hôm nay, em muốn giới thiệu tới các bạn một ngành nghề, đó là ngành bộ đội biên phòng – là một trong những ngành nghề thuộc Quân đội Nhân dân Việt Nam.
1. Tầm quan trọng của nghề lực lượng biên phòng:
           Là người dân Việt Nam ai ai cũng mong muốn đất nước mình được bình yên để có cuộc sống yên vui hạnh phúc.  Bộ đội Biên phòng là lực lượng vũ trang nhân dân của Đảng, của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là một thành phần của Quân đội nhân dân Việt Nam. Là lực lượng nòng cốt, chuyên trách, chủ trì phối hợp với các lực lượng vũ trang, các địa phương, các ngành liên quan và dựa vào nhân dân để quản lý, bảo vệ biên giới, giữ gìn an ninh, chính trị và trật tự an toàn xã hội ở khu vực biên giới . Đây cũng là lực lượng quản lý, bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, giữ gìn an ninh trật tự khu vực biên giới, vùng biển- đảo là nhiệm vụ thường xuyên lâu dài có ý nghĩa chiến lược rất quan trọng được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo; là sự nghiệp của toàn dân, của các lực lượng vũ trang nhân dân.    
      Ngày nay, ngành biên phòng không những có trách nhiệm và nghĩa vụ giữ gìn an ninh trật tự, chống phá các thế lực thù địch trong và ngoài nước, canh giữ bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ từ biên giới, hải đảo, vùng trời, vùng biển mà còn có trách nhiệm giúp các đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng biên giới cải thiện đời sống bằng cách dạy cho họ chăn nuôi, trồng trọt, dạy chữ,…
      Bộ đội biên phòng có nhiệm vụ đấu tranh ngăn chặn các hành vi xâm phạm lãnh thổ, vượt biển, nhập cư trái phép, khai thác trộm tài nguyên và những hành vi khác xâm phạm đến chủ quyền, lợi ích quốc gia, gây hại đến môi trường trong vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền của Việt Nam; chủ trì phối hợp các ngành, địa phương trong hoạt động quản lý, bảo vệ lãnh thổ tại các hải đảo, vùng biển Việt Nam. Họ còn có các nhiệm vụ chủ yếu: tổ chức quản lý, bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của tổ quốc ở khu vực biên giới trên bộ và trên biển, bảo vệ an ninh biên giới quốc gia, bảo vệ lợi ích và tài nguyên quốc gia trên khu vực này, ngăn chặn mọi hành động xâm phạm và làm thay đổi đường biên giới quốc gia. Trên vùng biển, Bộ đội biên phòng làm nhiệm vụ biên phòng trong phạm vi ranh giới được Nhà nước phân công. Tổ chức thực hiện quan hệ phối hợp với các lực lượng biên phòng nước láng giềng để thi hành các điều ước quốc tế, các hiệp ước, hiệp định với từng nước láng giềng trong quan hệ biên giới; xây dựng biên giới hoà bình, hữu nghị, hợp tác, góp phần xây dựng quan hệ các nước láng giềng thân thiện và giữa nhân dân hai bên biên giới; đấu tranh ngăn chặn mọi hành động làm phương hại đến quan hệ biên giới giữa hai nước và xâm phạm chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nước ta.
  + Tổ chức kiểm tra việc thực hiện pháp luật về biên giới quốc gia của Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, các điều ước quốc tế có liên quan đến chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán tại các hải đảo, vùng biển mà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia
   + Phối hợp với các đơn vị khác của các lực lượng vũ trang nhân dân và dựa vào nhân dân xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, huyện ven biển vững mạnh; sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu chống gây xung đột vũ trang và chiến tranh xâm lược.
   + Trực tiếp và phối hợp với các đơn vị khác của lực lượng vũ trang nhân dân, các ngành chức năng của Nhà nước đấu tranh chống buôn lậu, vận chuyển trái phép vũ khí, chất cháy, chất nổ, chất độc hại, ma tuý, văn hoá phẩm độc hại, hàng hoá cấm xuất khẩu, nhập khẩu qua biên giới trên đất liền, các hải đảo, vùng biển theo quy định của pháp luật.
    + Tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước, tham gia xây dựng cơ sở chính trị, phát triển kinh tế, xã hội, văn hoá, giáo dục, xây dựng nền biên phòng toàn dân, thế trận biên phòng toàn dân vững mạnh trong thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân ở khu vực ven biển.
    Với nhiệm vụ đặc biệt của mình, người lính có mặt trên khắp mọi miền của Tổ quốc: từ các trung tâm kinh tế, văn hóa, chính trị đến những vùng núi xa xôi hay hải đảo v.v...Đất nước hòa bình, nhưng người lính không quên nhiệm vụ. Họ vẫn ngày đêm canh giữ cho bình yên của Tổ quốc. Thành phố lấp lánh đèn hoa, thành phố tất bật, hối hả giữa ngày thường, thành phố im lìm chìm trong giấc ngủ đêm nhưng người lính vẫn thức. Họ giữ từng ngày thanh bình, chống lại những thế lực đang nhòm ngó ngoài xa, âm mưu làm mất đi những giờ phút hòa bình của đất nước. Vùng núi xa xôi, hẻo lánh, nơi cuộc sống còn nhiều vất vả, khó khăn, người lính vẫn có mặt, không phải chỉ vì sự bình yên mà còn để giúp xây dựng một cuộc sống tốt đẹp hơn. Họ cùng người dân nơi đây làm ruộng, dựng nhà, học tập.
2. Các cơ sở đào tạo nghề lực lượng biên phòng:
   Hiện nay có những cơ sở đào tạo nghề như:
 - Trường Trung cấp Biên phòng 1 là nơi đào tạo hạ sĩ quan nghiệp vụ biên phòng, huấn luyện chiến sĩ tăng cường lực lượng cho các tuyến biên giới, hải đảo. Nhà trường luôn chú trọng nâng cao chất lượng giáo dục, đẩy mạnh thực hành giúp học viên đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Trường tổ chức dạy 4 chuyên ngành gồm quản lý bảo vệ biên giới; quản lý cửa khẩu; trinh sát biên phòng và phòng, chống ma túy, tội phạm. Ngoài nghiên cứu nghiệp vụ, học viên được đào tạo ngoại ngữ, tìm hiểu công tác phòng, chống lụt bão, tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn". Trong mọi hoạt động, nhà trường luôn chú trọng phát triển đội ngũ giảng viên.
  Giáo viên hướng dẫn học viên sử dụng các loại vũ khí
     
  - Trường Trung cấp Biên phòng 2 (trước là trường Hạ sĩ quan Biên phòng 3)  đóng quân tại phường Phước Nguyên, TP. Bà Rịa - được thành lập ngày 2-4-1980. Trải qua 35 năm xây dựng và phát triển, Trường được xem như “cái nôi” đào tạo cán bộ quân nhân chuyên nghiệp và nhân viên chuyên môn kỹ thuật biên phòng của khu vực phía Nam.
Huấn luyện tìm kiếm cứu nạn tại Trường Trung cấp Biên phòng 2


   - Học viện Biên phòng (trước đây là Trường Sĩ quan Công an nhân dân vũ trang) được thành lập ngày 20/5/1963 đóng tại Phường Sơn Lộc, Thị xã Sơn Tây, Thành phố Hà Nội; trải qua hơn 50 năm xây dựng và trưởng thành.
3. Nhiệm vụ của học sinh sau khi tốt nghiệp THCS: 
    Khi nước ta đang ở trong giai đoạn đầu của thời kì công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Khi mà đại bộ phận nhân lực đang lao động với quy trình công nghệ ,hơn nữa thì sự phân công ngành nghề trong xã hội phải tuân theo một tỉ lệ có cấu trúc đội ngũ nhân lực hợp lí thì chúng ta cần phải làm gì để lựa chọn nghề nghiệp phù hớp với bản thân mà còn phải đáp ứng nhu cầu sự phát triển của xã hội. Trong khi đó, tuổi trẻ bây giờ thường có những ước mơ đẹp về nghề nghiệp mà không biết có những mâu thuẫn giữa nguyện vọng năng lực cá nhân và nhu cầu xã hội. Chế độ xã hội ta đã tạo cho mọi người quyền được lao động và học tập. Vì thế, mỗi học sinh sau khi tốt nghiệp THCS đều có quyền chọn lựa cho mình con đường vào đời một cách tốt đẹp và hợp lí hơn.
    Việc tư vấn, định hướng nghề nghiệp sẽ là hướng đi mới giúp học sinh chúng ta sớm học cách làm chủ cuộc đời mình, làm chủ tương lai. Tư vấn hướng nghiệp hiệu quả sẽ góp phần tạo ra một lực lượng lao động trong tương lai có định hướng nghề nghiệp rõ ràng, có năng lực chuyên môn, tay nghề cao, giúp tăng năng suất lao động, phát triển xã hội. Các chương trình tư vấn định hướng nghề không chỉ hữu ích với các học sinh lớp cuối cấp, mà với những học sinh khối lớp 10, 11 đang ấp ủ những ước mơ, dự định trong tương lai, tổ chức các hoạt động tư vấn hướng nghiệp ở nhà trường sẽ giúp chúng ta trải nghiệm, định hình lý tưởng. Có rất nhiều con đường để chúng ta lập nghiệp. Điều quan trọng là phải biết lựa chọn cho mình một hướng đi đúng đắn, phù hợp với khả năng của chính mình. Việc định hướng nghề nghiệp cho lại càng quan trọng hơn vì trước mắt chúng ta là cả một tương lai rộng mở. tính đến việc lựa chọn cho mình một nghề nào đó phù hợp, ở đó các em có thể phát huy tốt năng lực của bản thân, giúp ích cho gia đình, xã hội.    
          Hiện nay, khi còn ngồi trên ghế nhà trường mỗi học sinh chúng ta cần phải xác định để chọn một ngành nghề phù hợp để sau này ra trường ta sẽ đi đúng hướng hơn. Nhưng muốn làm được điều đó thì mỗi học sinh chúng ta cần cố gắng học thật giỏi, thường xuyên luyện tập thể dục thể thao để trau dồi sức khỏe. Điều quan trọng nhất là mỗi người phải có lòng nhiệt huyết, yêu nghề, tận tâm với nghề mà mình lựa chọn và phải có một lòng nồng nàn yêu nước thì mới cống hiến hết mình cho đất nước, xây dựng một đất nước Việt Nam giàu mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh.






      Ý nghĩa ngày của ngày 30/4/1975 và lịch sử ngày quốc tế lao động 1/5

·  Ý nghĩa ngày 30/4

Ngày 30/4/1975, đại thắng mùa xuân đã làm thất bại hoàn toàn cuộc chiến tranh xâm lược và ách thống trị thực dân mới của đế quốc Mỹ ở miền Nam, giải phóng hoàn toàn miền Nam, kết thúc vẻ vang cuộc chiến tranh cứu nước lâu dài nhất, khó khăn nhất và vĩ đại nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của nhân dân ta. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV tháng 12/1976 đánh giá: “Năm tháng sẽ trôi qua nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc”. Hay đánh giá của đại tướng Võ Nguyên Giáp: “Trong quá trình cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng, ba cái móc chói lọi bằng vàng: Tổng khởi nghĩa tháng Tám, chiến thắng Điện Biên Phủ và chiến thắng mùa xuân 1975, đại thắng mãi mãi sáng ngời trong sử sách. Nhân dân Việt Nam đã làm nên câu chuyện thần kì tưởng chừng không thể làm được giữa thế kỷ XX. Lần đầu tiên trong lịch sử, một dân tộc vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, kinh tế kém phát triển, đánh thắng những cường quốc, đế quốc chủ nghĩa chủ yếu bằng sức của chính mình, nêu một tấm gương anh dũng, bất khuất, trí tuệ, tài năng trước toàn thế giới”.
Đại thắng mùa xuân năm 1975, như nhận định của Đảng ta là một sự kiện quan trọng có tầm quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc, làm nức lòng bạn bè và nhân dân tiến bộ khắp năm châu bôn biển. Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng tại đại hội lần thứ IV cũng chỉ rõ: “Đối với thế giới, thắng lợi của nhân dân ta đã đập tan cuộc phản công lớn nhất của tên đế quốc đầu sỏ chĩa vào các lực lượng cách mạng kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, đẩy lùi trận địa của chủ nghĩa đế quốc, mở rộng trận địa của CNXH, phá vỡ một phòng tuyến quan trọng của đế quốc Mỹ ở Đông Nam Á, làm đảo lộn chiến lược toàn cầu phản cách mạng của chúng, đẩy Mỹ vào tình thế khó khăn chưa từng thấy, làm yếu hệ thống đế quốc chủ nghĩa, tăng thêm sức mạnh và thế tiến công của các trào lưu cách mạng thời đại, đem lại lòng tin và niềm phấn khởi cho hàng trăm triệu người trên khắp trái đất đang đấu tranh vì hòa bình độc lập dân tộc, dân chủ và CNHX”.
Cách mạng thế giới, đặc biệt phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, bao giờ cũng quanh co phức tạp nhưng không ngừng phát triển. Gần bốn thập kỷ qua, trong cục diện quốc tế đã mở ra một thời kỳ mới mà nhân dân tiến bộ gọi là “thời kỳ sau Việt Nam”. Việt Nam - ngọn cờ tiên phong, ngọn cờ vẫy gọi những người lao động nghèo khổ và các dân tộc bị áp bức trên thế giới đang đầy rẫy bất công và bạo ngược.

·  Lịch sử ngày Quốc tế Lao động 1/5
Hằng năm, người lao động trên toàn thế giới lại cùng nhau kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động 1/5. Vậy lịch sử của ngày 1/5 như thế nào?
Ngay sau khi thành lập Quốc tế I năm 1864, Mác coi việc rút ngắn thời gian lao động là nhiệm vụ đấu tranh của giai cấp vô sản. Tại Đại hội lần thứ nhất của Quốc tế Cộng sản I họp tại Gieneve (Thụy Sĩ) tháng 9/1866, vấn đề đấu tranh cho ngày làm việc 8 giờ được coi là nhiệm vụ quan trọng. Khẩu hiệu ngày làm 8 giờ sớm xuất hiện trong một số nơi của nước Anh, nước có nền công nghiệp phát triển sớm nhất. Yêu sách này dần lan sang các nước khác.
Do sự kiện giới công nhân viên chức Anh di cư sang Mỹ, phong trào đòi làm việc 8 giờ phát triển mạnh ở nước Mỹ từ năm 1827, đi đôi với nó là sự nảy nở và phát triển phong trào Công đoàn. Năm 1868, giới cầm quyền Mỹ buộc phải thông qua đạo luật ấn định ngày làm 8 giờ trong các cơ quan, xí nghiệp thuộc Chính phủ. Nhưng các xí nghiệp tư nhân vẫn giữ ngày làm việc từ 11 đến 12 giờ. 
Năm 1884, tại thành phố công nghiệp lớn 
Chicago, Đại hội Liên đoàn Lao động Mỹ thông qua nghị quyết nêu rõ: "...Từ ngày 1/5/1886, ngày lao động của tất cả các công nhân sẽ là 8 giờ". Sở dĩ ngày 1/5 được chọn bởi đây là ngày bắt đầu một năm kế toán tại hầu hết các nhà máy, xí nghiệp ở Mỹ. Vào ngày này, hợp đồng mới giữa thợ và chủ sẽ được ký. Giới chủ tư bản có thể biết trước quyết định của công nhân mà không kiếm cớ chối từ.
Ngày 1/5/1886, do yêu cầu của công nhân không được đáp ứng một cách đầy đủ, giới công nhân trên toàn nước Mỹ đã tham gia bãi công nhằm gây áp lực buộc giới chủ thực hiện yêu sách của mình. Đầu tiên là cuộc bãi công tại thành phố Chicago. Khoảng 40 nghìn người không đến nhà máy. Họ tổ chức mit-tinh, biểu tình trên thành phố với biểu ngữ “Từ hôm nay không người thợ nào làm việc quá 8 giờ một ngày! Phải thực hiện 8 giờ làm việc, 8 giờ nghỉ ngơi, 8 giờ vui chơi!” Cuộc đấu tranh lôi cuốn ngày càng đông người tham gia. Cũng trong ngày hôm đó, tại các trung tâm công nghiệp khác trên nước Mỹ đã nổ ra 5.000 cuộc bãi công với 340 nghìn công nhân tham gia. Ở Washington, New York, Baltimore, Boston... hơn 125.000 công nhân giành được quyền ngày chỉ làm 8 giờ. 
Những cuộc biểu tình tại 
Chicago diễn ra ngày càng quyết liệt. Giới chủ đuổi những công nhân bãi công, thuê người làm ở các thành phố bên cạnh, thuê bọn khiêu khích và cảnh sát đàn áp, phá hoại cuộc đấu tranh của công nhân. Các xung đột xảy ra dữ dội khiến hàng trăm công nhân chết và bị thương, nhiều thủ lĩnh công đoàn bị bắt... Báo cáo của Liên đoàn Lao động Mỹ xác nhận: "Chưa bao giờ trong lịch sử nước Mỹ lại có một cuộc nổi dậy mạnh mẽ, toàn diện trong quần chúng công nghiệp đến như vậy".
Ngày 20/6/1889, ba năm sau "thảm kịch" tại thành phố Chicago, Quốc tế cộng sản lần II nhóm họp tại Paris (Pháp). Dưới sự lãnh đạo của Frederic Engels, Đại hội lần thứ nhất của Quốc tế Cộng sản II đã quyết định lấy ngày 1/5 hàng năm làm ngày biểu dương lực lượng và đấu tranh chung của tầng lớp vô sản các nước. 
Từ đó, ngày 1/5 trở thành Ngày Quốc tế Lao động, ngày đấu tranh của giai cấp công nhân, ngày nghỉ ngơi và biểu dương lực lượng, ngày hội của công nhân và nhân dân lao động toàn thế giới.
Năm 1920, dưới sự phê chuẩn của Lê Nin, Liên Xô (cũ) là nước đầu tiên cho phép người dân được nghỉ làm vào ngày Quốc tế Lao động 1/5. Sáng kiến này dần dần được nhiều nước khác trên thế giới tán thành.
Tại Việt Nam, sau khi Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời (1930), giai cấp công nhân Việt Nam đã lấy ngày l/5 hàng năm làm ngày đỉnh cao của phong trào đấu tranh chống thực dân, đế quốc, giành độc lập - tự do - dân chủ, giành những quyền lợi kinh tế - xã hội. Trong thời kỳ trước Cách mạng tháng Tám, việc kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động 1/5 phần nhiều phải tổ chức bí mật bằng hình thức treo cờ, rải truyền đơn. Năm 1936, do thắng lợi của Mặt trận bình dân Pháp và Mặt trận dân chủ Đông Dương, ngày Quốc tế Lao động lần đầu tiên được tổ chức công khai tại Hà Nội, thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia. Đặc biệt, ngày 1/5/1938, một cuộc biểu tình lớn gồm hàng chục ngàn người đã diễn ra ở khu Đấu xảo Hà Nội với sự tham gia của 25 ngành, giới: thợ hoả xa, thợ in, nông dân, phụ nữ, người cao tuổi, nhà văn, nhà báo... Đây là cuộc mit-tinh lớn nhất trong thời kỳ vận động dân chủ (1936 - 1939), một cuộc biểu dương sức mạnh đoàn kết của nhân dân lao động do Đảng lãnh đạo. Nó đánh dấu một bước trưởng thành vượt bậc về nghệ thuật tổ chức và lãnh đạo của Đảng ta.
Ngày nay, ngày Quốc tế Lao động đã trở thành ngày hội lớn của hai giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam. Đây cũng là ngày biểu thị tình đoàn kết hữu nghị với giai cấp công nhân và nhân dân lao động toàn thế giới, cùng đấu tranh cho thắng lợi của hòa bình, tự do, dân chủ và tiến bộ xã hội.
                       HOẠT ĐỘNG NGLL THÁNG 4





           Thành tích Hoa Điểm 10 tuần 33,34







XUÂN VỀ TẾT ĐẾN

    


Năm mới tết đến xuân lại về   
Cây cối đâm chồi hoa nở lộc,
Khoe sắc màu hương toả ngát thơm.

Năm mới tết đến với mọi nhà
Người người cùng nhau mua sắm tết
Nào bánh nào mứt, trái cây tươi,
Nào bánh chưng, dưa hành củ kiệu,
Mâm ngũ quả phong tục vùng miền.

Gia đình đoàn tụ đón giao thừa
Cả nước rộn vang tiếng pháo hoa
Mọi người đi hái lộc đầu năm,
Cầu mong năm mới điều an lành.  

                                     Nhật Minh
                                         Hội tụ đầu xuân

                                                     Xuân về hoa nở muôn nơi
Người người rộn tiếng nói cười bên nhau.
Xuân về rực rỡ sắc màu
Chúc vui xuân mới ngỏ câu tâm tình.
Cuộc đời như ánh bình minh
Xuân về họp mặt vui mình với ta.
Hoa đời quyện với thơ ca
Cho đời hương với hương hoa thêm cùng.
Chúc năm mới đại thành công
Hội vui đoàn kết non sông một nhà.

                                                                       Lê Thị Vân Nhi

ĐÓN CHÀO MÙA XUÂN



Xuân về tết đến thật rồi

Bính Thân chào đón mọi người gần xa 
Không gian rộng khắp bao la

Nhịp cầu nối những bài ca rộn ràng


Pháo hoa đã nổ dồn vang

Báo một năm mới vẻ vang sẽ về

Từ thành phố đến thôn quê

Người giàu sang, kẻ dân quê


Một năm vất vả ngàn trùng

Đôi chân mệt mỏi lưng trần phơi sương

Tìm bát gạo kiếm đồng lương

Chỉ vì một lẽ khiêm nhường mưu sinh


Mùa xuân đã đến với mình

Bớt lo toan để gia đình cùng vui

Trên môi hãy nở nụ cười

Sức khỏe tài lộc gấp mười năm qua


Xuân về trên khắp quê ta

Mọi người ơi hãy hát ca lên nào

Gương mặt rạng rỡ hồng hào

Lòng vui phơi phới đón chào mùa xuân.
            
                                          Huệ Tâm

Ý NGHĨA VỀ NGÀY TẾT NGUYÊN TIÊU
Xưa các cụ có câu "Tết cả năm không bằng ngày rằm tháng giêng" ý nói ngày rằm tháng giêng vô cùng quan trọng. Cùng tìm hiểu ngày ý nghĩa này.
Tết Nguyên tiêu có nghĩa là đêm rằm đầu tiên của năm mới (Nguyên là thứ nhất, Tiêu là đêm.) Nguyên tiêu là đêm rằm đầu tiên của một năm (ngày rằm tháng giêng âm lịch). Tết Nguyên Tiêu còn gọi là Tết Thượng nguyên bởi vì còn có Tết Trung Nguyên ( rằm tháng bảy) và Tết Hạ Nguyên ( Rằm tháng mười)
Phong tục nầy bắt nguồn từ thời Tây Hán ở Trung Quốc, người ta còn tiến hành nghi thức rước đèn lồng rất đẹp mắt và long trọng. Chính vì thế, tết Nguyên Tiêu còn gọi là lễ hội lồng đèn. Ngày nay các thành phố có người Hoa sinh sống đều có tổ chức tết Nguyên tiêu một cách long trọng, nhất là tại phố cổ Hội An, tỉnh Quảng nam. Nơi đó có Hội quán Phước Kiến ( còn gọi là Chùa Phúc kiến ) nay là đường Trần phú, Phường Minh an thành phố Hội An.
“Hội quán Phước kiến nơi được xem là di tích và thờ nhiều vị thần nhất như: Thánh mẫu, người che chỡ, đỡ nạn cho ghe thuyền – tàu bè trên biển vượt qua giông bão; Bà chúa sinh thai, thần tài.... được mọi người dân kể cả doanh nghiệp sùng kính - để cúng nhương sao và cầu lộc, cầu phúc cho gia đình."
Trở lại vấn đề hội nhập văn hóa của người Việt. Vì ảnh hưởng tam giáo (Nho, Lão Phật ) Cho nên người việt cũng có Lễ Thượng Nguyên, Trong 3 lễ, thượng nguyên, Trung Nguyên, và Hạ nguyên đó trong dân gian có câu thành ngữ:
Rằm tháng giêng ai siêng thì quải,
Rằm tháng bảy kẻ quải, người không.
Rằm tháng mười, mười người mười quải.
“Quải” là từ thuần Nôm, tiếng đệm sau chữ “cúng” có nghĩa là “cúng tế”. Nhưng nếu đứng trước như từ “ quải đơm, quải cơm” chỉ về sự “kỵ, giỗ” Chú ý chữ QUẢI viết I ngắn chứ không viết Y dài. Viết chữ quảy có Y dài thì đồng âm nhưng khác nghĩa “ Quảy” có nghĩa là lấy vai chịu một đầu gánh, ý nghĩa tương tự như mang vác trên vai. Người dân gian Việt Nam không muốn lệ thuộc vào văn hóa của nước ngoài, mà muốn có một bản sắc văn hóa riêng. Câu thành ngữ trên đã minh chứng về sự không lệ thuộc đó, không khuyến khích, mà ai siêng năng, có điều kiện kinh tế thì quải, còn không thì thôi, không ép buộc. Rằm tháng bảy cũng vậy. Riêng Hạ nguyên, rằm tháng mười vì là ngày đầu mùa gặt. Người Việt thu hoạch vụ lúa vào tháng mười, thường từ mồng 10 phải xong trước ngày 23, theo lệ thường của thời tiết, vào khoảng thời gian nầy miền Bắc hay miền Trung thường có bão lụt:
Ông tha mà bà chẳng tha,
Đánh nhau một trận hăm ba tháng mười.
Ngày nay Rằm tháng giêng người Việt theo Phật giáo hay thờ cúng ông bà cũng đi lễ Phật vào rằm tháng giêng và trở thành một tập tục chung cho đông đảo quần chúng. Nên có câu thành ngữ: “Lễ Phật quanh năm, không bằng rằm tháng giêng”. Đúng ra ngày rằm tháng giêng theo Phật giáo là ngày vía Đức Phật A Di Đà. Đa số các Chùa đều thờ Phật Thích ca, đấng giáo chủ sanh tại Ấn độ cách đây hơn 2500 năm. Chỉ những Chùa nào theo Tịnh Độ Tông thì mới thờ Phật A Di Đà, là giáo chủ cõi Thiên đường, tên riêng gọi là Tây phương Cực lạc. Pháp môn niệm Phật A Di Đà, là 1 trong 84,000 pháp môn của Đạo Phật, pháp tu đơn giản nhất, và nhanh chóng để về cõi Tây phương. Cho nên “lễ Phật quanh năm không bằng rằm tháng giêng” là ý nghĩa về cầu sanh Tịnh độ.
Ngày nay các Chùa còn lạm dụng nhiều hình thức khác nhau, không còn đúng ý nghĩa ngày Lễ vía để tưởng niệm về 48 lời thệ nguyện rộng lớn của Đức Phật A Di Đà là giáo chủ cõi Tịnh Độ, cõi nước hy vọng của đời sau nữa, nà biến ngày lễ nầy thành ngày lễ Cầu an cho tín hữu và cũng có rất nhiều Chùa có Dương sao Giải hạn nữa. Như vậy là người lãnh đạo tôn giáo đã đi sai ý nghĩa và chân lý của Đạo. Họ đã thế tục hóa chân lý tánh Không của Phật giáo
Như vậy Tết Nguyên tiêu ở Việt nam chỉ còn những nơi nào có người Hoa sinh sống, có lễ hội, tuy lễ hội người Hoa ở Việt Nam cũng khác với lễ hội ngay tại Trung hoa xin trích bài của Tương Chân để quý vị tham khảo thêm:
“Rằm tháng giêng, người nông dân Trung quốc thường chống một cây sào cao to trước cửa nhà mình, trên treo một lồng đèn màu đỏ rất to. Đó là biểu thị cát tinh cao chiếu (nghĩa là ngôi sao tốt lành soi sáng trên cao). Nếu treo ba lồng đèn thì là tam tinh nhập hộ (sao tốt lành vào nhà). Theo đó, ở những nơi công cộng nếu trên dưới treo vô số lồng đèn thì người ta gọi là mở hội sao, còn gọi là kim ngọc mãn đường (tức là vàng ngọc đầy nhà), hàm nghĩa giàu sang phú quí, tài lộc dồi dào. Và mọi nhà thường chúc nhau: kim ngọc mãn đường và vận tinh vô hạn (vận sao may mắn vô hạn).
Lồng đèn có thể chia làm bốn loại: loại ngồi (tọa đăng), treo (quá đăng), nước (thủy đăng) và đề đăng (đèn xách tay). Đèn ngồi thì đặt dưới nước hoặc đặt ngồi trên một cái giá, đó là loại lồng đèn có kích cỡ lớn. Đèn treo thì treo theo hành lang, trước cửa nhà hay dưới hoặc giữa tàn cây; đó là loại lồng đèn được làm rất tinh xảo, có chiếc làm bằng tơ lụa hay pha lê với tranh vẽ trên mặt bằng những hình tròn bằng tơ pha lê.
Khi lên đèn, đèn phát tia sáng khúc xạ, tạo ra chùm sáng từ chùm lồng đèn biến thành một chuỗi ánh sáng dài, cho cảm giác hoa lệ, cao quí và huyền bí. Có loại gọi là lồng đèn kim thích với những lỗ nhỏ tạo hoa văn bằng những đầu kim to chích vào. Khi lên đèn, ánh sáng lọt qua những lỗ nhỏ trông lung linh. Thủy đăng thì làm bằng những chất liệu chống nước, làm nổi bật độ sáng và dáng vẻ thẩm mỹ của đèn khi đèn đặt dưới nước. Đèn xách tay thường là đèn cho trẻ em xách trên tay, xinh xắn như những ngôi sao lấm tấm trên nền trời.

Tết Nguyên tiêu còn có tập tục ăn trôi nước, người TQ gọi là thang viên - viên tròn trong nước, xuất phát từ ý nghĩa sum họp và sự tốt lành sinh lợi, nên Nguyên tiêu còn gọi là thang viên. Dấu ấn tuổi thơ trong nhiều gia đình TQ còn ghi nhận: khi người lớn làm xong phần nhân và lắc những viên trôi nước thì trẻ con chơi nghịch, lấy bột bôi trét lên mặt nhau. Và khi ăn xong trôi nước thì chúng được phép xách lồng đèn lên phố dạo chơi.”
DỰ THI TRONG NGÀY TẾT NGUYÊN TIÊU






PHONG TỤC NGÀY TẾT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM


Phong tục người Việt Nam hằng năm mỗi khi Tết đến mọi người muốn trở về sum họp dưới mái ấm gia đình. Đầu năm ai cũng muốn được khấn vái trước bàn thờ Ông Bà, thăm lại ngôi mộ hay nhà thờ tổ tiên. Nhiều người cũng muốn thăm lại nơi họ đã từng sinh sống với gia đình trong thời niên thiếu. Đối với nhiều người xuất thân từ nông thôn Việt Nam, kỷ niệm thời niên thiếu có thể gắn liền với giòng sông, bờ ao, vườn bưởi, vườn rau sau nhà, v.v.  Có lẽ vì vậy, câu nói “ về quê ăn Tết” đã trở thành một thành ngữ chỉ cuộc hành hương về nơi cội nguồn.
Tuy là Tết cổ truyền của dân tộc nhưng tuỳ theo mỗi vùng, mỗi miền của Việt Nam hoặc theo những quan niệm về tôn giáo khác nhau nên có thể có nhiều hình thức, nhiều phong tục tập quán từng địa phương khác nhau. Nhưng đều có chung một điểm là có thể phân làm ba khoảng thời gian, mỗi khoảng thời gian ứng với những sự chuẩn bị, ứng với những lễ nghi hay ứng với những hình thức thể hiện khác nhau, đó là: Tất niên, Giao thừa và Tân niên.

I.TẤT NIÊN
Cuối năm quét dọn sạch sẽ nhà cửa, sân ngõ, vứt bỏ những thứ rác rưởi, cùng làng xóm dọn dẹp nhà thờ, đình chùa, đường sá phong quang, tắm giặt, cắt tóc, may sắm quần áo mới, trang trí bàn thờ, lau chùi bàn ghế, ấm chén và mọi thứ thức ăn vật dụng.  Đối với Tết cổ truyền, dịp tất niên là lúc mọi nhà chuẩn bị cho những ngày lễ hội, mua thêm đồ ăn, thức uống. Lý do là đa số hàng quán, chợ búa sẽ nghỉ trong và sau ngày Tết, có khi một vài ngày cho đến một tuần. Bà con đổ xô mua sắm vào dịp nầy cũng một phần là vì các nhà thường chuẩn bị cho dịp Tết từ năm cũ. Những nhà làm nghề nông cũng để dành hoa màu từ trong năm cũ cho dịp Tết.
Bước vào bất cứ nhà nào trong dịp cuối năm cũng có thể nhận thấy ngay không khí chuẩn bị Tết rất nhộn nhịp.  Từ việc mua sắm, may mặc đến việc trang trí nhà cửa, chuẩn bị bánh trái, cỗ bàn, đón tiếp người thân ở xa về… Đối với các gia đình lớn, họ hàng đông, có quen biết rộng, đông con cháu, dâu rể, thì công việc chuẩn bị càng có nhiều thời gian và tất bận hơn.

Cúng Bái:
Sắp dọn bàn thờ:  Trong gia đình người Việt thường có một bàn thờ.  Tùy theo từng nhà, cách trang trí và sắp đặt bàn thờ khác nhau. Bàn thờ là nơi tưởng nhớ, là thế giới thu nhỏ của người đã khuất.  Hai cây đèn tượng trưng cho mặt trời, mặt trăng; hương là tinh tú.  Hai bát hương để đối xứng, phiá sau hai cây đèn thường có hai cành hoa cúc giấy, với nhiều bông nhỏ bao quanh bông lớn.  Cũng có nhà cắm “cành vàng lá ngọc”, một thứ hàng mã với cầu mong làm ăn được quả vàng, quả bạc, buôn bán lãi gấp 5, gấp 10 lần năm trước.  Ở giữa  có trục “vũ trụ” là khúc trầm hương dưới dạng khúc khuỷu, vươn lên trong bát hương.  Nhiều gia đình đặt xen giữa đèn và hưong là hai cái đĩa để đặt hoa quả lễ gọi là mâm ngũ quả.  Phiá trước bát hương để một bát nước trong, coi như nước thiêng.  Hai cây mía đặt ở hai bên bàn thờ là để các cụ chống gậy về với con cháu, dẫn linh hồn tổ tiên từ trên trời về hạ giới… Mâm ngũ quả là một mâm trái cây có chừng năm thứ trái cây khác nhau thường có trong ngày Tết Nguyên Đán của người Việt.  Các loại trái cây bày lên thể hiện nguyện ước của gia chủ qua tên gọi, màu sắc và cách sắp xếp của chúng.

Cứ vào khoảng 28 tháng Chạp âm lịch thì nhà nhà đều cho bày biện một mâm ngũ quả kèm với nhiều sản vật khác trên bàn thờ. Mâm ngũ quả thường bày trên một cái mâm bằng gỗ tiện, sơn son, có chân, gọi là mâm bồng. Nếu không có mâm bồng, có thể bày trên một cái đĩa to, nhưng phải đặt trên chồng bánh chưng để tạo dáng cao, uy nghiêm, thành kính. Mâm ngũ quả có 5 loại. Tại sao lại 5?  Theo các vị cao niên, am tường về Nho giáo thì xuất xứ của mâm ngũ quả có liên quan đến quan niệm triết lý Khổng giáo của phương Ðông, thế giới được tạo nên từ năm bản nguyên – gọi là “ngũ hành”: Kim – Mộc – Thuỷ – Hỏa – Thổ, nghĩa là 5 yếu tố cấu thành vũ trụ. Còn theo quan niệm của dân gian thì “quả” tức trái cây được xem như biểu tượng cho thành quả lao động một năm. Ông cha ta chọn 5 loại trái cây để cúng đêm giao thừa là ngụ ý rằng:  Những sản vật này được kết tinh từ công sức, mồ hôi, nước mắt của con người lao động, kính dâng lên đất trời, thần thánh trong giờ phút linh thiêng của vũ trụ vạn vật sinh tồn.  Tư tưởng, hình ảnh ấy đã ăn sâu và tâm thức của người Việt Nam bao đời nay.

Một mâm Ngũ quả ngày Tết ở miền Bắc Việt Nam gồm: cam, quất, bưởi, chuối và dứa.                                                                                                                                                                                                                                                    Mâm ngũ quả người miền Nam gồm: dừa, đu đủ, mãng cầu, sung, xoài với ngụ ý cầu sung vừa đủ xài. Người miền Nam thường kiêng kỵ chưng trái có tên mang ý nghĩa xấu (kể cả khi đọc trại) như chuối – “chúi nhủi”, cam – “cam chịu”, lê – “lê lết”, sầu riêng, bom (táo), lựu – “lựu đạn”… và không chọn trái có vị đắng, cay.

Cúng Ông Táo:  Theo tích xưa thì “ông Táo” là người ghi chép tất cả những gì con người làm trong năm và lên trình báo với Ngọc Hoàng.  Ngoài ra, ông Táo còn đại diện cho sự ấm no của một gia đình. Ông Táo được cúng vào ngày 23 tháng chạp Âm Lịch hàng năm.  Mỗi nhà đều làm cơm, cúng tiễn Táo quân về trời.  Ngoài mâm cơm với các món ăn tươm tất, còn có mũ và áo mã bằng giấy để Táo quân mặc và một hoặc ba con cá chép thả trong chậu nước để Táo quân cưỡi về thiên đình.

Đi thăm mộ tổ tiên:  Từ ngày 23 cho đến chiều 30 tháng Chạp, con cháu trong gia tộc tề tựu đông đủ và cùng đi thăm và quét dọn mồ mã tổ tiên.  Mỗi gia đình đều đem theo hương đèn, hoa quả để cúng, mời vong linh tổ tiên về ăn Tết với con cháu.  Khi chưa có nghĩa trang ở nông thôn Việt Nam, ít nhà có ruộng đất lớn để làm mộ phần tổ tiên, nên những điền chủ có nhiều ruộng đất trong làng cho mượn đất chôn nhờ.  Vì thế, cuối năm, mỗi gia đình đi thăm mộ đều mang theo quà Tết để biếu điền chủ đã cho mình mượn đất hay người coi sóc nghĩa trang (nếu mộ phần đặt trong nghĩa trang).

Cúng Tất Niên:  Lúc đầu được hiểu như là hoàn tất công việc trong năm, tức cúng các Tổ nghề đã phù hộ cho công việc làm ăn, nhưng vì không phải thợ nào cũng có vị tổ nghề rõ ràng nên dần dà, mọi người đều cúng.  Lễ cúng nầy thường vào các ngày từ sau 23 đến 29 hoặc 30 Tết.

Trang Trí:
Dựng nêu:  Nêu là một cây tre hay cây tầm vông dài khoảng 5-6 mét. Ở ngọn thường treo nhiều thứ tùy theo từng địa phương như giấy vàng bạc, bùa trừ tà, cành xương rồng, bầu hồ lô rượu, hình cá chép bằng giấy để Táo quân cởi về trời, dãi cờ phướn màu đỏ, đôi khi người ta còn cho treo lủng lẳng những chiếc khánh nhỏ bằng đất nung, mỗi khi gió thổi, những khánh đất va chạm nhau tạo thành những tiếng kêu leng keng nghe rất vui tai…Người ta tin rằng những vật treo ở cây nêu, cộng thêm những tiếng động của những khánh đất, là để báo hiệu cho ma quỷ biết rằng nơi đây là nhà có chủ, không được tới quấy nhiễu… Vào buổi tối, người ta treo một lồng đèn ở cây nêu để tổ tiên biết đường mà về nhà ăn Tết với con cháu. Vào đêm trừ tịch, cũng như ngày mùng một Tết, người ta còn cho đốt pháo ở cây nêu để mừng tổ tiên về ăn Tết, mừng năm mới tới, xua đuổi ma quỷ hoặc những điều không may.
Ở miền Bắc, nêu thường được dựng vào ngày 23 tháng Chạp là ngày Táo quân về trời, cũng chính vì sự vắng mặt của Táo công kể từ ngày 23 cho tới đêm Giao nên ma quỷ thường nhân cơ hội nầy lẻn về quấy nhiễu, nên phải trồng cây nêu để trừ tà.
Trưng bày các loại tranh vẽ tết cổ truyền: Phía trên bàn thờ thường treo một tranh dân gian vẽ ngũ quả, chiếc cuốn thư…có khi là một chữ Nho ( chữ Tân, Phúc, Đức…).

Câu đối Tết:  Để trang hoàng nhà cửa và để thưởng Xuân, trước đây từ các nho học cho tới những người bình dân “tồn cổ” vẫn còn trọng tục treo “câu đối đỏ” nhân ngày Tết.  Những câu đối này được viết bằng chữ Nho (màu đen hay vàng) trên những tấm giấy đỏ hay hồng đào cho nên còn được gọi là câu đối đỏ.  Bản thân chữ “câu đối đỏ” cũng xuất hiện trong câu đối Tết sau:
Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ                                                                                                    Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh.
Câu đối thuộc thể loại văn biền ngẫu, gồm hai vế đối nhau nhằm biểu thị một ý chí, quan điểm, tình cảm của tác giả trước một hiện tượng, một sự việc nào đó trong đời sống xã hội.  Nên lưu ý là từ đối ở đây có nghĩa là ngang nhau, hợp nhau thành một đôi.  Câu đối là một trong những thể loại của Văn học Trung Quốc và Việt Nam.

Hoa đào đỏ, Mai vàng, cây Quất:  Miền Bắc Việt Nam thường chọn cành đào để cắm trên bàn thờ hoặc cả cây đào trang trí trong nhà.  Theo quan niệm người Trung Hoa, cành hoa đào có phép thuật trừ tà ma, màu đỏ chứa đựng sinh khí mạnh.  Vì vậy, màu đào đỏ thắm như một lời chúc phúc đầu xuân.  Miền trung và miền Nam lại hay dùng cành mai hoặc cây hoa mai vàng, theo dân gian từ nghìn xưa màu vàng tượng trưng vương quyền.  Màu vàng thuộc hành Thổ trong Ngũ hành, theo quan điểm người Việt, Thổ nằm ở vị trí trung tâm và màu vàng được tượng trưng cho sự phát triển, thăng tiến.  Cây quất thường được trang trí tại phòng khách hay trước cửa nhà.  Cây quất với quả chín vàng ươm, tròn trịa, xum xuê tượng trưng cho sự sinh sôi, thịnh vượng, tràn đầy, viên mãn kết quả.
Ngoài hai loại hoa đặc trưng cho Tết là đào và mai, hầu như nhà nào cũng có thêm những loại hoa để thờ cúng và hoa trang trí. Hoa thờ cúng có thể như hoa vạn thọ, cúc, lay ơn, hoa huệ…; hoa để trang trí thì muôn màu sắc như hoa hồng, hoa thủy tiên, hoa lan, hoa thược dược, hoa violet, hoa đồng tiền… Ngoài ra, hoa hồng, cẩm chướng, loa kèn, huệ tây, lá măng, thạch thảo… cắm kèm sẽ tạo sự phong phú và mang ý nghĩa sum họp cho bình hoa ngày Tết.  Màu sắc tươi vui chủ đạo của bình hoa cũng ngụ ý cầu mong một năm mới làm ăn phát đạt, gia đình an khang và sung túc.

Bánh chưng, bánh tét: Với quan niệm món ăn trong ngày Tết là món ăn dâng cúng ông bà tổ tiên, thần linh và sau đó là tiếp khách nên các món ăn được làm rất công phu như gạo để làm bánh phải thật trắng, thơm và bánh luột ra phải thật tinh khiết… Nét truyền thống và linh thiêng trong cách thức làm bánh chưng, bánh tét dâng cúng trong ngày Tết được phản ảnh khá đậm nét ở việc chế biến và công đoạn làm bánh.  Đối với nhiều người Việt, dịp tất niên là dịp trả nợ cũ, không ai muốn mắc nợ dây dưa sang năm mới.  Xoá bỏ xích mích, tỵ hiềm của năm cũ, để hướng tới năm mới vui vẻ hoà thuận hơn.  Bánh chưng độc đáo, sáng tạo, đậm đà bản sắc dân tộc còn ở những vật liệu và cách gói, cách nấu. Lúa gạo thì tượng trưng cho nền văn hóa lúa nước, nhiệt đới, nóng và ẩm, được chế biến dưới nhiều hình thức khác nhau, mang tính đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam.
Miền Bắc có bánh chưng, miền Trung và miền Nam có bánh tét.  Về nguyên liệu và cách nấu giống nhau, nhưng về hình dáng thì bánh chưng có hình vuôn, bánh tét có hình trụ. Bánh tét được phổ biến rộng và được bán quanh năm như bánh tét có nhân mặn, nhân ngọt, nhân chuối, hay bánh tét chay có nhân đậu…Món ăn chánh yếu trong ba ngày Tết của người Nam là nồi thịt kho, dưa giá, bánh tét, bánh phồng, mứt dừa, mứt bí… Trái cây thì có dưa hấu, quít, bưởi.  Những thức ăn và bánh trái chuẩn bị cho ba ngày Tết là mồng một, mồng hai và mồng ba.

II. GIAO THỪA

Lễ rước vong linh ông bà:  Chiều 30 tháng Chạp, các thức ăn và trái cây được xếp thành cổ để dâng lên bàn thờ ông bà, tổ tiên.  Đây là dịp cả gia đình quây quần trước vong linh cửu huyền thất tổ, ôn lại những sự việc đã xảy ra trong năm để rút tỉa kinh nghiệm cho năm mới.  Gia trưởng (người đứng đầu gia tộc, thường là người cao tuổi nhất) trịnh trọng thắp nén hương dâng lên bàn thờ, cầu xin tổ tiên chứng giám và phù hộ cho gia tộc được nhiều phước lành trong năm mới.  Theo sau gia trưởng, mọi người trong nhà đều nghiêm trang chắp tay cung thỉnh tổ tiên về ăn Tết với con cháu.

Cúng Giao thừa, hay lễ Trừ tịch:  Theo tục lệ cổ truyền thì “giao thừa” được tổ chức nhằm đón các thiên binh, thiên tướng đi ngang qua nhà.  Lúc đó do họ đi thị sát dưới hạ giới, rất vội không kịp vào tận bên trong nhà được, nên bàn cúng thường được đặt ở ngoài cửa chính mỗi nhà.  Mâm lễ được sắp bày với lòng thành kính bái mà Trời đã mang lại phước lành cho một năm.  Thường thì một chiếc bàn hương án được kê ra, trên có bát nhang, hai ngọn đèn cầy.  Lễ vật gồm:  một con gà luộc, vài lát bánh tét hay bánh chưng, kẹo mứt, hoa quả, ruợu trà và vàng mã.

Lẽ trời đất có khởi thuỷ phải có tận cùng, một năm có bắt đầu ắt phải có kết thúc. Bắt đầu vào lúc giao thừa, và cũng kết thúc vào lúc giao thừa. Theo từ điển Hán- Việt của học giả Đào Duy Anh nghiã là cũ giao lại, mới đón lấy.  Lễ trừ tịch cử hành vào lúc giao thừa còn mang tên là lễ Giao thừa.  Sau khi cúng giao thừa xong, các gia chủ khấn Thổ Công, tức là vị thần cai quản trong nhà (thường bàn thờ tổ tiên ở giữa, bàn thờ Thổ Công ở bên trái) để xin phép cho tổ tiên về ăn Tết.  Ở miền Nam, Thổ Công được thay bằng Ông Địa và thờ ở dưới đất.   Sau khi cúng xong, xem như Tết thực sự đã đến với gia đình.

Trước đây, ở Việt Nam đúng vào phút giao thừa, các nhà thường đốt pháo Tết.  Theo lời truyền thuyết dân gian, pháo được cho nổ vào dịp năm mới để xua đuổi ma quỷ của năm cũ (vì người xưa đã tin rằng ma quỷ sợ tiếng động lớn) chào đón năm mới tươi vui và may mắn.  Pháo càng dài càng lớn, nổ càng lâu, kêu càng to, cháy ra nhiều xác phác pháo và cháy hết thì càng được cho là điềm lành của năm mới.

Mừng Tuổi & Lì Xì:   Sau Giao Thừa có tục mừng tuổi chúc Tết.  Trước hết con cháu mừng tuổi ông bà, cha mẹ.  Ông bà cha mẹ chuẩn bị sẵn một ít tiền để tặng cho con cháu trong nhà và con cháu hàng xóm láng giềng, bạn bè thân thích.  Lời chúc có ca có kệ hẳn hoi nhưng xem người ta thích nhất điều gì thì chúc điều đó, chúc sức khoẻ là phổ biến nhất.  Chú ý tránh phạm tên huý gia tiên, tránh nhắc tới lỗi lầm sai phạm cũ, xưng hô hợp với lứa tuổi và quan hệ thân thuộc.

Chữ “lì xì” được phiên âm từ tiếng Quảng Đông sang tiếng Việt, nguyên là chữ “lợi thị” (tiền bạc, lợi lộc) trong Hán tự.  Để mừng tuổi các em, những người lớn trong gia đình, họ hàng, bạn bè của cha mẹ tặng các em những món tiền nho nhỏ (lì xì) và chúc các em chóng lớn, học hành đỗ đạt, v. v. Những món tiền này được cho vào phong bì màu đỏ trơn hoặc có hoa văn vàng. Cũng như màu hồng thắm, màu đỏ hoặc các màu có sắc đỏ được tin là tượng trưng cho sự may mắn.  Sau khi nhận những lời chúc thọ, các vị cao niên trong gia đình lì xì tất cả con cháu bất kể tuổi tác với những món tiền nho nhỏ, vừa bạc lẻ vừa tiền chẵn, ngụ ý chúc con cháu làm ăn phát đạt, tiền bạc sinh sôi nảy nở trong năm
III.  TÂN NIÊN                                                                                                                                             
 Chúc Tết:
Trước bàn thờ nghi lễ truyền thống, ăn mặc lễ phục chỉnh tề, cử chỉ nghiêm trang, dọn lòng trong sạch hướng tâm linh cúng lạy, nguyện sống xứng đáng với ”bề trên”. Sự tín ngưỡng ấy đã góp phần tạo thêm giá trị nhân văn, đạo đức truyền thống, bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc. Sự thờ cúng tổ tiên mách bảo con cháu giữ gìn đạo lý, nề nếp gia phong, sống tình nghĩa thủy chung, tu thân, hướng thiện. Thực tâm cầu thị, yêu đồng loại, sâu nặng cội nguồn…Nhiều gia đình đặt xen giữa đèn và hương là hai cái đĩa để đặt hoa quả lễ gọi là mâm ngũ quả (tuỳ mỗi miền có sự biến thiên các loại quả, nhưng mỗi loại quả đều có ý nghĩa của nó), phía trước bát hương để một bát nước trong, coi như nước thiêng. Hai cây mía đặt ở hai bên bàn thờ là để các cụ chống gậy về với con cháu, dẫn linh hồn tổ tiên từ trên trời về hạ giới…
Sáng mồng một Tết, con cháu tụ họp ở nhà tộc trưởng đễ lễ Tổ Tiên, chúc tết ông bà, các bậc huynh trưởng và mừng tuổi lẫn nhau. Theo tục lệ, cứ năm mới tới, kể cả người lớn lẫn trẻ con, mỗi người tự nhiên tăng lên một tuổi, bởi vậy ngày mùng một Tết là ngày con cháu “chúc thọ” ông bà và các bậc cao niên; và các người lớn thì “mừng tuổi” các trẻ em một cách bằng những đồng tiền mới bỏ trong những “phong bao”, còn gọi là “lì xì”. Xưa còn có lệ cho tiền phong bao với số tiền lẻ, ngụ ý tiền này sẽ sinh sôi nẩy nở thêm nhiều.

Cũng vào dịp đầu Xuân, người có chức tước khai ấn, học trò, sĩ phu khai bút, nhà nông khai canh, người buôn bán mở hàng lấy ngày: Sĩ, Nông, Công, thương “Tứ dân bách nghệ” của dân tộc ta vốn cần cù, ai cũng muốn năm mới vận hội hành thông làm ăn suôn sẻ, đầu xuân chọn ngày tốt đẹp, bắt tay lao động sớm, tránh tình trạng cờ bạc, rượu chè, hội hè đình đám, vui chơi quá đà. Sau ngày mồng một, dù có mãi vui tết, hoặc còn kế hoạch du xuân, đón khách, cũng chọn ngày “Khai nghề”, “Làm lấy ngày”. Nếu như mồng một là ngày tốt thì chiều mồng một đã bắt đầu. Riêng khai bút thì giao thừa xong, chọn giờ Hoàng đạo bắt đầu không kể mồng một là ngày tốt hay xấu. Người thợ thủ công nếu chưa ai thuê mướn đầu năm thì cũng tự làm cho gia đình mình một sản phẩm, dụng vụ gì đó (nguyên vật liệu đã chuẩn bị sẵn).  Người buôn bán, vì ai cũng chọn ngày tốt nên phiên chợ đầu xuân vẫn đông, mặc dù người bán chỉ bán lấy lệ, người đi chợ phần lớn là đi chơi xuân. Phong tục trong các lễ hội Tết hiện còn tiếp tục: Múa lân, múa rồng… Các lễ hội cổ truyền đã mất như thi đánh đu, thi leo cột mỡ…các trò chơi dân gian như: Bịt mắt bắt dê, múa võ, hát bội, hát cải lương, hát chèo, hát chòi và nhiều loại bài bạc cổ truyền. Các trò chơi cộng đồng khác như đua thuyền, đấu vật tùy theo mỗi địa phương các lễ hội nầy có thể được tổ chức hay không.   

Xuất hành hái lộc: Xuất hành là đi ra khỏi nhà trong ngày đầu năm để đi tìm cái may mắn cho mình và gia đình. Trước khi xuất hành, người ta phải chọn ngày, giờ và các phương hướng tốt để mong gặp được các quý Thần, Thần tài, hỉ Thần…Nếu xuất hành ra chùa hay đền, sau khi lễ bái, người Việt còn có tục bẻ lấy một “cành lộc” để mang về nhà lấy may, lấy phước.  Đó là tục “hái lộc”. Cành lộc là một cành đa nhỏ hay cành đề, cành si, cây xương rồng…là những loại cây quanh năm tươi tốt và nẩy lộc.  Tục hái lộc ở các nơi đền, chùa ngụ ý xin hưởng chút lộc của Thần, Phật ban cho nhân năm mới.  Cành lộc thường đem về cắm ở bàn thờ.  Khác với miền Bắc, miền Trung không có tục hái lộc đầu năm nhờ thế mà cây cối trong các đền chùa ở miền Trung vẫn giử nguyên lộc biếc suốt cả mùa xuân.
Quà Tết, lễ Tết:  Bình thường qua lại hỏi thăm nhau có khi cũng có quà, biểu lộ mối ân tình, nhưng phong tục ta đi lễ Tết vẫn có ý nghĩa hơn, nhất là đi trước Tết càng quý.  Loại trừ động cơ hối lộ quan trên để cầu danh cầu lợi thì việc biếu quà Tết, tỏ ân nghĩa tình cảm là điều đáng quý. Học trò tết thầy giáo, bệnh nhân tết thầy thuốc, con rể tết bố mẹ vợ… quà biếu, quà Tết đó không đánh giá theo giá thị trường. Nhưng cũng đừng nên gò bó, câu nệ sẽ hạn chế tình cảm: Không có quà, ngại không dám đến. Dân tộc ta tuy nghèo nhưng vẫn trọng nghĩa tình, “Lời chào cao hơn mâm cỗ”.

Lễ mừng thọ:  Ở các nước Tây Âu thường mừng thọ vào dịp kỷ niệm ngày sinh, ở ta ngày xưa ít ai nhớ chính xác ngày sinh tháng đẻ nên vào dịp đầu xuân thường tổ chức mừng thọ lục tuần, thất tuần, bác tuần, cửu tuần… tính theo tuổi mụ. Ngày Tết, ngày Xuân cũng là dịp mọi người đang rảnh rỗi, con cháu tụ tập đông vui.

Trong gia đình Việt Nam, người cao tuổi được kính trọng hơn hết vì có nhiều kinh nghiệm. Sự kính trọng quý vị cao niên cho thấy một xã hội biết kiêng nể nguồn gốc và có tinh thần khiêm tốn, chịu khó học hỏi từ những người đi trước vì có ai từng trải bằng các vị ấy. Cho nên, sáng sớm mùng Một Tết là lúc con cháu trong gia tộc tỏ lòng hiếu thảo qua việc chúc tuổi ông bà, cha mẹ. Người Việt quan niệm rằng cứ mỗi độ xuân về là mọi người đều thêm một tuổi, bất kể sanh nhằm ngày nào trong năm. Tóm lại, ngày Tết là ngày tiêu biểu cho truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc.

Thăm viếng họ hàng:  Quanh năm làm ăn vất vả, ít có điều kiện qua lại thăm hỏi nhau, nhân ngày Tết đến chúc mừng nhau, gắn bó tình cảm thật là đặm đà ý vị; hoặc điếu thuốc miếng trầu, hoặc chén trà ly rượu, chẳng tốn kém là bao. Hiềm một nỗi, nhiều người còn quá câu nệ, công thức rườm rà, không chủ động được kế hoạch. Nhiều vùng nông thôn, hễ đến chúc Tết nhau nhất thiết phải nâng ly rượu, nếm vài món thức ăn gì đó chủ mời vui lòng, năm mới từ chối sợ bị giông cả năm. Để gắn kết tình cảm gia đình, họ hàng, lời chúc tết thường là sức khoẻ, phát tài, phát lộc, những người năm cũ gặp rủi ro thì chúc mau mau “tai qua nạn khỏi” hay “của đi thay người” nghiã là trong cái họa cũng tìm thấy cái phúc, hướng về sự tốt lành. Người ta thường kiêng không nói tới điều rủi ro hoặc xấu xa vào dịp nầy.

Cờ bạc: Ngày xưa các gia đình có nề nếp quanh năm cấm đoán con cháu không được cờ bạc, rượu chè nhưng trong dịp Tết, nhất là tối 29, 30; gia đình quay quần bên nồi bánh chưng thì việc đánh bài, cờ gánh, cờ nhảy, cờ tướng, tổ tôm…ai thích trò nào chơi trò ấy. Đến lễ khai hạ, tiễn đưa gia tiên coi như hết Tết thì xé bộ  tam cúc, thu bàn cờ tướng, cất bộ tổ tôm hoặc đốt luôn khi hoá vàng.

Cúng đưa hạ nêu:  Trong những ngày Tết, người Việt cho rằng có sự hiện diện của Ông Bà tổ tiên nên bàn thờ luôn được thấp hương và cúng cơm mỗi ngày.  Thường thì chiều Mồng Ba cúng tiễn đưa Ông Bà, chiều Mồng Bảy cúng hạ nêu và xem như hết Tết.

TỤC LỆ KIÊNG CỮ
Theo tục lệ trong ngày đầu năm mà có nhiều điều tốt đẹp thì cả năm đó chắc chắn sẽ có nhiều điều tốt đẹp đến cho mọi người. Do đó, người dân Việt Nam từ xưa có rất nhiều điều kiêng kỵ như sau:
–       Kỵ mai táng: Nếu nhà ai không may có thân nhân qua đời vào ngày 30 hay Mùng Một Tết thì phải quàn thi hài trong nhà, đợi qua ngày Mùng Một và khi nào làng làm lễ động thổ xong mới được làm đám.  Nếu làng làm động thổ vào ngày mùng một, mùng hai thì đơn giản; nhưng nếu làm vào mùng sáu, mùng bảy tháng giêng thì tang gia vô cùng khổ sở.  Họ cho rằng khởi đầu một năm mà đã có sự lạnh lẽo của đám tang thì làng sẽ gặp nhiều điều không may cho cả năm đó.

–       Tục xông đất:  Sáng mùng một Tết, người ta rất kiêng vào nhà ai đó mà chưa có người xông nhà. Nguời xông nhà phải có tuổi không được xung khắc với tuổi gia chủ, kỵ những người trong năm bị hoạn nạn (cháy nhà, mất của, tai nạn, nhà có đám…), kỵ những người vợ chồng bất hoà, sinh con một bề, vía dữ.v.v…  Thường người ta kén một người “nhẹ vía” trong gia đình ra đi từ trước giờ giao thừa, rồi sau lễ trừ tịch thì xin hương lộc hoặc hái cành lộc ở đình chùa mang về. Lúc trở về đã sang năm mới và người nầy sẽ tự “xông nhà” cho gia đình mình,  mang sự tốt đẹp quanh năm về cho gia đình. Nếu không có người nhà, người ta phải nhờ người khác tốt vía để sớm ngày mùng một đến xông nhà trước khi có khách tới chúc tết, để người nầy đem lại sự may mắn suốt năm.

THÀNH TÍCH HỌC SINH GIỎI HỌC KỲ I

Hội CMHS lớp đã tổ chức cho lớp đến thăm trại làng hòa bình và Trung tâm trẻ sơ sinh mồ côi











HOẠT ĐỘNG NGLL THÁNG 12
Chủ điểm: Uống Nước Nhớ Nguồn
Nội dung hoạt động: HỘI VUI HỌC TẬP










                  CHÚT TÂM SỰ
                                                                      

 Em biết đấy, cuộc đời nhà giáo
           Là người lái đò đưa khách sang sông
          Khách sang sông mấy ai gửi nụ cười
Ngày qua ngày vẫn con đò ấy.
       Cứ lặng thầm chở khách qua sông.
                             
                                                                   GVCN: Nguyễn Thị Phi
SÁNG TÁC VĂN DỰ THI 

NÉT BÚT TRI ÂN


Nhân kỷ niệm lần thứ 33, ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11/1982-20/11/2015, với lòng tri ân sâu sắc của người học trò năm cuối cấp nơi mái trường Trung học cơ sở Lý Tự Trọng thân yêu này, em xin được bày tỏ cùng thầy cô và các bạn qua “Nét bút tri ân”.
    Chúng em rất vui mừng và tự hào trước những kết quả mà thầy trò trường ta đã đạt được trong những năm học qua. Để có những thành tích ngày hôm nay, thầy cô đã phải đổ bao công sức và tâm huyết của mình, không chỉ dạy chữ mà còn dạy chúng em làm người. Thay mặt toàn thể học sinh trong trường, là một học sinh lớp 9/5, xin được gửi đến thầy cô lời biết ơn chân thành nhất. Chúng em cũng xin gửi đến các bậc cha mẹ và chính quyền địa phương lời cảm ơn vì đã luôn dành cho chúng em những điều kiện tốt nhất cho việc học tập.
     Đối với những học sinh lớp 9 chúng em, những ngày được học, được sống dưới mái trường Lý Tự Trọng thân thương là những ngày tháng tươi đẹp, vô tư và trong trẻo nhất! Bốn năm qua, dưới mái trường này, chúng em đã lớn lên nhờ “ cơm cha, áo mẹ, chữ thầy”. Lặng lẽ, ân tình và gửi gắm biết bao hi vọng, thầy cô đã cho chúng em tri thức, dạy dỗ chúng em nên người. Trường Lý Tự Trọng chẳng khác gì ngôi nhà thứ hai của mỗi chúng em. Nghĩ đến việc phải rời xa nơi này, em buồn lắm…
   Đi dọc những hành lang quen thuộc, đưa mắt nhìn ra khoảng trời đầy nắng và gió, em thấy yêu quá những hàng cây bàng, cây phượng,… thấy nhớ làm sao những ngày đầu được thầy cô dìu dắt bước vào trường. Em nhớ lắm tiếng giảng bài trầm bổng và cả lời nhắc nhở nghiêm khắc của thầy cô;  những lúc vui vẻ và cả những giận hờn với bạn bè… Bao lần làm thầy cô buồn, chúng em vẫn chưa nói được lời xin lỗi ; bao công lao dạy dỗ của thầy cô, chúng em vẫn chưa cất nên lời cảm ơn... Rồi mai đây, mỗi học trò lớp 9 rẽ sang một ngả khác nhau, mấy ai có lúc ngoảnh mặt lại mà nhìn những bước chân mình đã đi qua, những vấp ngã được thầy cô nâng đỡ. Nhưng chúng em biết rằng, dù ở nơi đâu, có bạn bè mới, thầy cô mới thì chúng em cũng không thể quên mái trường Lý Tự Trọng dấu yêu này!
   Những ngày tháng của năm học cuối cấp thật ngắn ngủi với chúng em, các bạn lớp 9 thường ngồi nán lại dưới tán bàng xanh mát dù trống đã báo tan trường…Chúng em  muốn lưu giữ bóng dáng thầy cô, bè bạn, những hàng cây, ghế đá và lớp học thân quen…Tất cả những hình ảnh này rồi sẽ trở thành kỉ niệm…Em sẽ không còn được ngồi trong lớp 9/5 thân thương, không còn được nghe thầy cô giảng bài hoặc trách phạt, cũng không thể cùng bạn bè đùa nghịch rồi miệng cười ồ mỗi giờ ra chơi...            Chúng em muốn lớn lên nhưng lại không muốn rời xa nơi này. Bây giờ thì em đã hiểu được hai câu thơ mà Chế Lan Viên đã viết:
                                      Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
                                  Khi ta đi, đất bỗng hoá tâm hồn…
    Nhân ngày  Nhà giáo Việt Nam, thay mặt cho tất cả các bạn lớp 9/5, em xin gửi đến các thầy cô những lời cảm ơn chân thành nhất từ tận đáy lòng. Chúng em kính chúc thầy cô luôn mạnh khoẻ, có thật nhiều niềm vui, mong thầy cô mãi giữ lại niềm thương, quên đi nỗi buồn để mái tóc thầy cô đừng thêm sợi bạc…Chúng em xin hứa sẽ cố gắng vượt qua mọi thử thách, học tập và rèn luyện thật tốt để không phụ công dạy dỗ của quý thầy cô. . .
   Xin thầy cô hãy nhận từ chúng em lời tri ân và tình yêu thương sâu sắc nhất!                                                                                                    Lê Thị Vân Nhi

Thơ dự thi

Ơn Cô




Cô ơi, sân trường vãn rồi

Bụi phấn vương vội đã mờ hay chưa?


Dù trời nắng, dẫu trời mưa


Cô vẫn lặng lẽ sớm trưa "đưa đò".


Để bao thế hệ học trò


Đong đầy kiến thức cập bờ tương lai.


Cô chắp thêm đôi cánh này


Mang theo mơ ước em bay vào đời


Khung trời rộng mở đón mời


Đem tài góp lực rạng ngời non sông.


Bước theo chân Bác, cha ông


Xứng danh con cháu Tiên Rồng ngàn năm.

                                        
                                             Phan Quỳnh Như




CÔ EM
    
    Mỗi ngày cô đến lớp            
     Tà áo dài tung bay
      Cô nói giọng rất hay
      Ấm áp như lời mẹ
     Cô bước đi rất nhẹ
     Mái tóc xỏa ngang vai
     Dáng cô cao hơi gầy
     Nhưng mà có duyên lắm
     Cầm viên phấn trên tay
     Cô dạy em từng bài
    Giảng về một tương lai
     Của ngày mai tươi sáng
     Em yêu cô giáo lắm
    Thay bằng lời tri ân
     Em cố gắng học hành
    Thành con ngoan trò giỏi.
                                 
                                   Ngô Diễm Quỳnh

Mừng ngày nhà giáo Việt Nam

Ngày nhà giáo sắp đến 
Chúng em lại náo nức
Hân hoan vui đón chào
Bằng tấm lòng thành kính
Chúng em cố gắng học
Những điểm mười đỏ chói
Những lời hay chữ đẹp
Biết vâng lời thầy cô
Giúp đỡ bạn cùng tiến
Để giành lấy điểm tốt
Không phụ lòng thầy cô
              *
Người thầy giáo tận tụy
Đêm về soạn giáo án
Ngày đến lớp giảng bài
Bụi phấn nhuộm tóc thầy
Dạy chúng em nên người
               *
Em viết bài thơ này
Xin kính dâng lên thầy
Ngày nhà giáo Việt Nam
                     Nguyễn Lê Nhật Minh
                                
   LỜI CÔ DẠY

     Trong đêm muôn sao sáng
     Sáng chiếu trên trời cao
     Người cô dy biết bao
     Như ngàn sao sáng t.

     Cô em như ngn gió
    Thổi đưa đến tương lai
      Rồi có lúc em sai
     Cô ân cần giảng dạy.

     Em hứa chăm ngoan mãi
     Để cô khi phin lòng
     Chắc cô sẽ tươi cười
     Vì em luôn cố gắng.

     Cô em là tia nắng
    Rọi chiếu đường tương lai
    Và vương rng đôi vai
    Nâng bước em vào đời.


                                            Đỗ Hu Tâm
       
    
uỳnh Như                                                             
                                                    
                                                            
 TRI ÂN THẦY CÔ

Ngọt ngào tiếng ru của mẹ Dịu dàng lời nói Thầy Cô Ngày đêm chăm lo vun đắp Cho em chắp cách vào đời. Thầy là người cha đáng kính Cô như mẹ hiền dấu yêu Dạy em những điều chân lý Cuộc đời còn lắm nghĩ suy. Giờ đây gắng công học tập Mai sau giúp ích cho đời Công ơn Cô Thầy dạy bảo Trong lòng khắc mãi không quên.               Trần Nhật Phương

CÔ GIÁO EM


                                                                               Người lái đò sang sông
Vẫn cần mẫn ngày đêm
Đưa con thuyền cập bến
Đến bến bờ tương lai
Là cô giáo của em
Cô em rất hiền dịu
Giọng nói cô ấm áp
Cử chỉ cô ngọt ngào
Tận tình dạy chúng em
Những điều hay lẽ phải
Chân lí của cuộc đời
Để sau này dù lớn
Chúng em không vấp ngã
Trên con đường thành công
Em yêu cô vô cùng
Hứa sẽ thật chăm ngoan
Để đền đáp ơn cô



  • Khánh Ly



                                                             Chào mừng Ngày Nhà Giáo Việt Nam
Chúng em cảm ơn thầy cô giáo
Người đã chắp cánh tương lai em
Đến những ước mơ chân trời mới
Nơi tương lai mở cửa đón chào
Cuộc sống em bao điều mới lạ
Thầy cô dìu đỡ em vào đời
Cho em nhiều bài học quí báu
Thầy cô là cha mẹ thứ hai
Đưa em khỏi dông bão cuộc đời
Dìu đỡ em lúc em vấp ngã
Người cho em những hy vọng mới
Để đối diện với những thử thách
Của cuộc đời gian khổ chông gai
Em sẽ nhìn về phía mặt trời
Nở trên môi nụ cười rạng rỡ
Vì thầy cô luôn ở bên em
An ủi em những lúc khó khăn
Để tự tin vững bước vào đời
Em mãi luôn yêu các thầy cô
 Dù có đi trên con đường mới
Em sẽ luôn nhớ về thầy cô.


Lương Thị Minh Châu
TRƯỜNG  XƯA
                     -  THANH HẰNG -

Con về thăm lại trường xưa.
Rêu phong phủ kín con đường đã qua.
Bạn bè giờ đã cách xa.
Như chim tung cánh bay đi mọi miền.

Con về thăm cảnh u buồn.
Tường phong rêu cũ cây bàng già nua.
Con tìm mãi chỗ ngồi xưa.
Đây dòng kí ức ùa về trong tim.

Nhảy dây, đá bóng, lò cò…
Góc trường nho nhỏ tiếng cười râm rang.
Nhớ từng buổi học ngày xưa.
Tuổi thơ với những ước mơ bộn bề.

Giờ đây con đã lớn khôn.
Những ngày thơ ấy vẫn là hành trang.
Mái trường xưa cũ dấu yêu.
Đã nâng những bước chân con đầu đời .

Nhớ từng bóng dáng Thầy Cô.
Đạo đời sâu sắc người dành cho con.
Khắc ghi mãi dến bây giờ.

Suốt đời con vẫn nhớ hoài không quên.

  Lời Con Muốn Nói

 Hôm nay, nhân dịp ngày nhà giáo Việt Nam, tôi muốn tự tay mình viết lên lời tri ân người thầy mà tôi gọi là người cha thứ hai của tôi. Tuy cha không cho tôi áo ấm, cơm no nhưng cha cho tôi cả chữ nghĩa của đời mình, cha dành hết tâm huyết để đưa lối tôi đến thành công như ngày hôm nay. Tôi muốn nói với cha rằng: "Con cảm ơn cha, cảm ơn cha nhiều lắm" lời nói xuất phát từ tận đáy lòng, tận tâm hồn tôi. Đó là tất cả tình cảm của tôi dành cho cha. Tôi thương cha lắm, vì những đứa con ngoan mà cha bạc đầu với bụi phấn vùi mình đêm tối soạn giáo án để trao cho con những kiến thức vô giá. Công ơn này con xin nhớ mãi không quên. Con hi vọng rằng một ngày nào đó con sẽ trở về gặp cha với tư cách là một học trò thành đạt.

                                                                           Huỳnh Thị Vinh          
LỊCH SỬ VÀ Ý NGHĨA NGÀY NHÀ GIÁO VIỆT NAM 20-11




Tháng 01/1946, một tổ chức quốc tế các nhà giáo tiến bộ được thành lập ở Paris (thủ đô nước Pháp) lấy tên là FISE (Féderation International Syndicale des Enseignants - Liên hiệp quốc tế các Công đoàn Giáo dục). Năm 1949, tại Hội nghị quốc tế Vacsava (Varsovie - Thủ đô của Ba Lan) tổ chức FISE xây dựng  "Hiến chương các nhà giáo" gồm 15 chương. Nội dung chủ yếu là đấu tranh chống nền giáo dục tư sản, phong kiến; xây dựng nền giáo dục tiến bộ; bảo vệ những quyền lợi vật chất và tinh thần chính đáng của nghề dạy học và nhà giáo.     Trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Công đoàn Giáo dục Việt Nam đã liên hệ với FISE với mục đích tranh thủ các diễn đàn quốc tế, tố cáo âm mưu tội ác của bọn đế quốc xâm lược đối với nhân dân ta cũng như đối với giáo viên và học sinh. Đồng thời, giới thiệu những thành tích của nền giáo dục cách mạng, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của toàn thể giáo viên trên thế giới đối với cuộc kháng chiến chính nghĩa của nhân dân ta.     Từ ngày 26 đến 30/8/1957, tại Thủ đô Vacsava, Hội nghị FISE có 57 nước tham dự, trong đó có Công đoàn giáo dục Việt Nam, quyết định lấy ngày 20 tháng 11 làm ngày Quốc tế Hiến chương các nhà giáo.Lần đầu tiên ngày "Quốc tế Hiến chương các nhà giáo" được tổ chức trên toàn miền Bắc nước ta vào ngày 20/11/1958. Các năm sau, ngày lễ 20/11 còn được tổ chức tại các vùng giải phóng ở miền Nam.Sau khi đất nước thống nhất, theo đề nghị của ngành Giáo dục, ngày 28/9/1982 Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã ban hành QĐ số 167 - HĐBT về ngày Nhà giáo Việt Nam. Trong đó có điều khoản quy định, lấy ngày 20/11 là ngày Nhà giáo Việt Nam.     Ngày 20/11/1982, là lễ kỷ niệm ngày Nhà giáo Việt Nam đầu tiên được tiến hành trọng thể trong cả nước ta. Từ đó đến nay, đây là ngày truyền thống của ngành giáo dục để tôn vinh những người làm công tác trồng người.(Ngày 20/11 là dịp để các thế hệ học trò bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc với những người thầy, để mọi ngành, mọi nghề và toàn xã hội chia sẻ niềm vui, tri ân tới những người đã góp công sức và tâm huyết cho sự nghiệp trồng người cao cả, góp phần xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
                                                                 
Thứ 2 ( ngày 16/11/15), Nhà trường tổng kết và phát thưởng các phong trào chào mừng ngày Nhà Giáo Việt Nam 20-11 

Nhất hoa điểm 10 ( Nguyễn Thành Công)


Nhất BLOG
 
Giải Nhất làm thiệp chào mừnd 20/11

Giải KK sáng tác Văn (Vân Nhi)




LỚP THAM GIA THI LÀM THIỆP NHÂN NGÀY 20/11
Giải Nhất


BAN ĐẠI DIỆN CMHS CÙNG CÁC EM TỔ CHỨC KỈ NIỆM 33 NĂM NGÀY NHÀ GIÁO VIỆT NAM 20-11 




P.H nêu lịch sủ và ý nghĩa ngày 20/11

Song ca do Q,Như và Thanh Hằng hát tăng cô


Q,Như hát tặng cô  

P.H tham gia văn nghệ



Khen thưởng cho HS đạt thành tích trong học tập

Khen thưởng cho HS đạt thành tích trong phong trào

HƯỞNG ỨNG NGÀY ĐÔ THỊ VIỆT NAM








HOẠT ĐỘNG NGLL THÁNG 11






PHÁT BẢNG DANH DỰ THÁNG 9 ,10





Thứ 2 (26/10/15), tiết chào cờ Hội đồng đội Thành Phố Tam 

Kỳ đã phát động
cuộc thi " CHINH PHỤC VŨ MÔN'

"Chinh Phục Vũ Môn "là một sân chơi đầy ý nghĩa và bổ ích. Thông qua trò chơi giúp chúng em được trang bị thêm những kho tàng kiến thức mới, được giáo dục, rèn luyện, góp phần nâng cao hiểu biết, giúp chúng em có cơ hội khám phá, tìm hiểu về đời sống khoa học, nền tảng xã hội. Sân chơi CPVM đã đưa chúng em tới một không gian học mà chơi, chơi mà học, giúp chúng em tự học tốt hơn và mang đến cho chúng em niềm say mê, hứng thú trong học tập”.



Tiết chào cờ thứ 2 ( 19/10/15) , tổ Ngữ Văn-Mỹ Thuật và Thư Viện tổ chức ngoại khóa ngày phụ nữ Việt Nam 20/10

Lớp đạt giải nhất vẽ tranh nhân ngày phụ nữ 20/10





      

Ngày 20/10 hàng năm được chọn là Ngày Phụ Nữ Việt Nam, đó là sự ghi nhận của đất nước với những con người được Bác Hồ tặng 8 chữ vàng: "Cần cù, Bất khuất, Trung hậu, Đảm đang".
Lịch sử dân tộc Việt Nam là lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước, trong đó, phụ nữ Việt Nam giữ một vai trò trọng yếu Ngày 3/2/1930, Đảng Cộng sản Đông Dương thành lập.
Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã ghi: “Nam nữ bình quyền”. Đảng đặt ra: Phụ nữ phải tham gia các đoàn thể cách mạng (công hội, nông hội) và thành lập tổ chức riêng cho phụ nữ để lôi cuốn các tầng lớp phụ nữ tham gia cách mạng.
Chính vì vậy mà vào mùa thu năm 1930, ngày 20/10, HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ chính thức được thành lập. Sự kiện lịch sử này thể hiện sâu sắc quan điểm của Đảng đối với vai trò của phụ nữ trong cách mạng, đối với tổ chức phụ nữ, đối với sự nghiệp giải phóng phụ nữ. Tổ chức cao cấp nhất của phụ nữ Việt Nam đã ra đời, đánh dấu một mốc quan trọng, chính thức công nhận vai trò và thể hiện sự tôn trọng bình đẳng của nam giới đối với phụ nữ.


Tới 20/10/2010 HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ đã ra đời được 80 năm, vị trí của người phụ nữ trong xã hội ngày càng được khẳng định. Phụ nữ đã là một phần không thể thiếu góp vào thành công của cách mạng Việt Nam, trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.
Trong công cuộc xây dựng đất nước, phụ nữ đã có những đóng góp quan trọng thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
Ngày Phụ nữ Việt Nam (ngày 20/10) đang đến, bạn đang háo hức chuẩn bị quà để dành tặng những người phụ nữ thân yêu của mình. Vậy nhưng, có bao giờ bạn thắc mắc, ngày này có lịch sử và ý nghĩa như thế nào không? Sau đây là giải đáp cho thắc mắc của bạn.
Phụ nữ Việt Nam vốn sinh ra trong một đất nước với nền văn minh nông nghiệp, dựa trên nền tảng nghề trồng lúa nước và thủ công nghiệp nên phụ nữ Việt Nam đã trở thành lực lượng lao động chính.
Bên cạnh đó, nước ta luôn luôn bị kẻ thù xâm lược, đời sống nghèo khổ. Từ thực tế đó mà người phụ nữ Việt Nam có bản sắc phong cách riêng: họ là những chiến sĩ chống ngoại xâm kiên cường dũng cảm; là người lao động cần cù, sáng tạo, thông minh; là người giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong việc giữ gìn, phát triển bản sắc và tinh hoa văn hoá dân tộc; là những người mẹ dịu hiền, đảm đang, trung hậu đã sản sinh ra những thế hệ anh hùng của dân tộc anh hùng.
Dưới chế độ nửa thuộc địa, nửa phong kiến, tầng lớp phụ nữ Việt bị áp bức, bóc lột, chịu nhiều bất công nhất. Khát vọng giải phóng dân tộc cũng vì thế mà sôi sục trong tâm trí phụ nữ.
Những ngày đầu chống Pháp, rất nhiều phụ nữ đã tham gia vào các tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam như Nguyễn Thị Minh Khai, Thái Thị Bôi, Tôn Thị Quế…
Các tổ chức như Công hội đỏ, Nông hội đỏ thu hút rất nhiều chị em phụ nữ tham gia. Tổ chức Thanh niên Cách mạng đồng chí hội cũng có nhiều chị em là cán bộ cốt cán.
Thực ra, ngay từ năm 1927, đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai đã đứng ra họp mặt các chị em có cùng chí hướng cứu nước thành nhóm phụ nữ. Tuy nhiên, nhóm này hoạt động sơ khai, chưa có chính cương và điều lệ.
Dù vậy, hàng tháng nhóm này đều tổ chức các buổi hội thảo để tìm ra con đường giải phóng phụ nữ.
Năm 1930, phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh lên cao. Có tới gần 13 ngàn phụ nữ tham gia cùng nhân dân đấu tranh, thành lập chính quyền. Cũng trong năm đó, đồng chí Nguyễn Thị Thập đã tham gia lãnh đạo cuộc đấu tranh của hàng ngàn phụ nữ ở Mỹ Tho.
Ngày 3/2/1930, Đảng Cộng sản Đông Dương thành lập. Trong cương lĩnh đầu tiên của Đảng ghi rõ: “Nam nữ bình quyền”. Đảng đã đề cao phụ nữ và coi phụ nữ là lực lượng quan trọng của cách mạng. Đảng đề ra nhiệm vụ phải giải phóng phụ nữ gắn liền với giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp gắn liền với giải phóng phụ nữ.
Đảng cũng đặt nhiệm vụ quan trọng là phải thành lập tổ chức riêng để các tầng lớp phụ nữ tham gia hoạt động.
Chính vì thế, chỉ một thời gian ngắn sau khi Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời, ngày 20/10/1930, Hội Phụ nữ phản đế Việt Nam cũng được thành lập. Đảng Cộng sản cũng coi đây là ngày tôn vinh chị em phụ nữ.
Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, ngày 20/10/1946, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam được thành lập, mà tiền thân là Hội Phụ nữ phản đế Việt Nam.
Lần đầu tiên trong lịch sử nước ta, một đoàn thể quần chúng của phụ nữ được hoạt động hợp pháp và công khai, nhằm đoàn kết, động viên lực lượng phụ nữ đóng góp tích cực vào sự nghiệp cách mạng của đất nước.
Đây cũng là lần đầu tiên, người phụ nữ Việt Nam được cầm lá phiếu bầu cử, tham gia các công tác chính quyền và xã hội, nắm giữ nhiều trọng trách trong bộ máy Nhà nước và các đoàn thể quần chúng.
Như vậy, ngày lịch sử đáng ghi nhớ của phụ nữ Việt Nam được bắt đầu từ ngày 20/10/1930, cách nay đã 84 năm.
HOẠT ĐỘNG NGLL THÁNG 10
Chủ điểm: CHĂM NGOAN HỌC GIỎI
Nội dung hoạt động: Tìm hiểu thư của Bác Hồ






Sáng nay (28/9/15), nhà trường tổ chức buổi ngoại khóa an toàn giao thông.



Nhân dịp Trung Thu 2015, Hội CMHS và lớp đến thăm các em Trung Tâm bảo trợ trẻ em chất độc da cam /dioxin và trẻ em bất hạnh của tỉnh Quảng Nam




ĐẠI HỘI CHI ĐỘI 
1/Qua thảo luận trong đại hội, chi đội thống nhất với các chỉ tiêu sau:
a/ Hạnh kiểm: Tốt    39 (95%)-  Khá 2 (5%)
b/ Học lực: Giỏi  14  ; Khá: 15     tb: 12 (không có hs Yếu)
Tốt nghiệp: 100%
c/ Đạt 35% cháu ngoan Bác Hồ cấp thành phố và 40% cháu  ngoan Bác Hồ cấp xã phường.
c/ Về phong trào: Tham gia tốt và hiệu quả các phong trào do liên đội đề ra. Thực hiện tốt 6 chương trình rèn luyện đội viên.
Đăng ký thi đua chi đội: Chi đội xuất sắc
2/ Bầu BCH chi đội năm học 2015-2016:
STT
Họ và tên
Chức vụ
1
Đỗ Huệ Tâm
C.Đ Trưởng
2
Nguyễn Thành Công
C.Đ Phó
3
Nguyễn Lê Nhật Minh
UV
4
Lê Thị Vân Nhi
UV
5
Nguyễn Hoàng Khánh Ly
UV




Hình ảnh lao động chiều thứ 4 (16/9/15)





Tuyên dương các em đạt điểm 10 kiểm tra miệng tuần 4



HOẠT ĐỘNG NGLL THÁNG 9






 

PHÓNG SỰ NGÀY KHAI GIẢNG NĂM HỌC 2015-2016

      u Thu về mang cho bầu trời bộ áo mới trong xanh khoác lên mình tấm áo kiêu sa, kiều diễm của ngàn chiếc lá nhuốm vàng kết trong nắng nhạt, khi hương hoa sữa thoang thoảng quyện trong từng cơn gió mỏng manh xen vào từng hàng cây, góc phố khiến lòng người lâng lâng thì đó cũng là lúc bắt đầu mùa tựu trường – mùa dệt nên những ước mơ, khát vọng, đam mê của tuổi học trò. 
        Hòa chung trong không khí nhộn nhịp, tưng bừng , rực rỡ cờ hoa của ngày khai trường trong cả nước. Sáng 5/9/2015, học sinh cùng với thầy cô và phụ huynh học sinh trường THCS Lý Tự Trọng hân hoan, long trọng tổ chức lễ khai giảng năm học mới 2015-2016. Mở đầu cương trình là nghi thức đón học sinh khối lớp 6.  Những khuôn mặt của các em học sinh lớp 6  vừa bỡ ngỡ, vừa háo hức, phấn khởi tiến vào lễ đài trong tiếng trống rộn ràng với cờ hoa phấp phới. Lần đầu tiên chạm chân vào ngưỡng của bậc THCS và cũng lần đầu tiên được đứng trong hàng ngũ học sinh Lý Tự Trọng ngôi trường của biết bao thế hệ tương lai tươi sáng. Các em chính là những bông hoa nhỏ sẽ tỏa hương thơm ngát trong vườn hoa lớn của trường THCS Lý Tự Trọng.

       
 Tiếp đến là lễ chào cờ được diễn ra thật nghiêm trang với phút truyền thống.

     Sau lễ chào cờ, Thầy Võ Tấn Đông phó hiệu trưởng nhà trường  đọc thư của Chủ tịch nước gửi các cháu học sinh nhân ngày khai trường .

     Thầy hiệu trưởng Nguyễn Tấn Sĩ đọc diễn văn khai giảng năm học 2015- 2016. Trong bài diễn văn, thầy đã điểm lại những thành tích nổi bật mà thầy và trò Trường THCS Lý Tự Trọng đã đạt được trong năm học 2014-2015  và nêu lên những mục tiêu mà nhà trường cần phấn đấu và đạt được trong năm học 2015-2016. Và  Thầy đã đánh tiếng trống khai trường, từng tiếng trống “ Tùng! Tùng ! Tùng” vang lên khiến chúng em thấy trong lòng đang được tiếp thêm sức mạnh cho một năm học mới . Tiếng trống ngân dài vang xa từng hồi nối tiếp  nhau mang lại cho em nhiều cảm xúc bồi hồi, xao xuyến, tưng bừng mà khó phai.

Thầy hiệu Trưởng Nguyễn Tấn Sĩ đọc diễn văn khai giảng năm học 2015-2016

Thầy hiệu trưởng Nguyễn Tấn Sĩ đánh trống khai trường
       Kết thúc buổi lễ khai giảng  là chương trình “Văn nghệ ” và hội thi "Tìm hiểu chủ quyền biển đảo Việt Nam". Những tiết mục văn nghệ sôi động đã hâm nóng bầu không khí se lạnh của buổi sáng mùa thu. Chúng em như những chú chim non cất cao tiếng hát ngợi ca mái trường – tổ ấm thân yêu thứ hai trong niềm tự hào khôn xiết. Sân trường ngập một màu đỏ của cờ và hoa. Không còn chút cảm giác se lạnh nào mà chỉ còn quanh đây cảm giác ấm áp và rất đỗi thân thương. Đặc biệt là phần tham gia  hội thi "Tìm hiểu lịch sử chủ quyền biển đảo" của lớp 8/2 và 9/5 giúp cho chúng em hiểu biết thêm về tình hình biển đông hiện nay.  Không khí khai giảng đã để lại trong lòng đại biểu, phụ huynh và chúng em thật nhiều ấn tượng tốt đẹp.

  
Tiết mục của lớp 7/9
Cô và trò lớp 6/1

Thuyết trình của lớp 9/5
Thuyết trình của lớp 8/2

Lịch sử và ý nghĩa ngày Quốc khánh 2/9



Tuyên dương các bạn đạt điểm 10 kiểm tra miệng


THAM GIA HỘI THI "TÌM HIỂU LỊCH SỬ, CHỦ QUYỀN ĐẤT NƯỚC"
Sáng nay giờ chào cờ lớp 9/5 đã tham gia hội thi với nội dung:'Trung Quốc đã cải tạo, bồi lấp các đảo Việt Nam như thế nào?







Chào mừng 70 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9

Tháng 8 năm 1945, cuộc chiến tranh thế giới đi vào giai đoạn kết thúc. Sau khi tiêu diệt phát xít Đức tại sào huyệt của chúng, Liên Xô quay sang tấn công tên phát xít phương đông là Nhật Bản. Phong trào đấu tranh chống Nhật bùng lên mạnh mẽ ở các nước phía đông và đông nam Châu Á. Con thú dữ ở á đông đó lâm vào tình trạng tột cùng nguy khốn. Thời cơ cách mạng đang mở ra trước con đường giải phóng của các dân tộc, Đảng ta đứng trước một cơ hội lịch sử ngàn năm có một, giờ phút có ý nghĩa quyết định đối với vận mệnh của đất nước.   Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào (Tuyên Quang)  trong hai ngày 14 và 15 tháng 8 năm 1945 đã giải quyết vấn đề trọng đại: quyết định tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Đại biểu các Đảng bộ từ Bắc, Trung, Nam, từ các chiến khu và khu giải phóng về dự đông đủ. Hội nghị họp vào lúc phát xít Nhật tuyên bố đầu hàng. Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh liền thành lập "ủy ban khởi nghĩa toàn quốc" để lãnh đạo khởi nghĩa trong cả nước. Trong tình hình hết sức khẩn trương, Đảng quyết định phát động và lãnh đạo toàn dân tổng khởi nghĩa giành chính quyền từ tay phát xít Nhật và bọn bù nhìn tay sai của chúng trước khi quân đồng minh Anh, Pháp vào nước ta. 23 giờ đêm 13 tháng 8, ủy ban khởi nghĩa ra "Quân lệnh số I" hạ lệnh tổng khởi nghĩa:  ... "Giờ tổng khởi nghĩa đã đánh! Quyết chiến! Quyết chiến! Quyết chiến! Thắng lợi nhất định về ta" Mệnh lệnh khởi nghĩa và lời hiệu triệu cứu nước là tiếng gọi của non sông thức tỉnh con tim mỗi người Việt Nam yêu nước hãy nhất tề đứng dậy tranh đấu giành quyền Độc lập- Tự do. Lòng yêu nước thiết tha và sự đoàn kết nhất trí được biểu lộ rõ nét trong Đại hội Quốc dân họp ở Tân Trào ngày 15-8. Hơn 60 đại biểu của các thành phần dân tộc, tôn giáo và các đoàn thể, đảng phái tề tựu trước mái đình Hồng Thái để bàn việc cứu nước. ý chí quyết chiến của hội nghị Diên Hồng thuở trước giờ đây đang sống lại và bội phần mãnh liệt tại Đại hội Tân Trào. Các đại biểu đều tán thành chủ trương Tổng khởi nghĩa của Đảng. Đại hội quy định quốc kỳ, quốc ca, 10 chính sách lớn và cử ra ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam, tức là Chính phủ lâm thời sau này. Đồng chí Nguyễn ái Quốc, sau bao năm đấu tranh kiên cường vì sự nghiệp cách mạng của dân tộc, đã được đại hội nhất trí bầu làm chủ tịch- Chủ tịch Hồ Chí Minh.Không khí cách mạng sôi sục trong cả nước.  Nắm được thời cơ thuận lợi, nhiều địa phương ở Quảng Ngãi, Hà Tĩnh đã nổi dậy giành chính quyền từ ngày 14-8. Ngày 18, chính quyền các tỉnh Bắc Giang, Hải Dương, Quảng Nam đã về tay nhân dân. Ngày 15, xứ ủy Bắc Kỳ trực tiếp chỉ thị cho Hà Nội khởi nghĩa. Hà Nội sống trong những ngày rạo rực chuẩn bị nổi dậy, các tầng lớp nhân dân nhất là thanh niên, hăng hái gia nhập các đoàn thể cứu quốc, tuyên truyền cho Việt Minh, thành lập các đội tự vệ chiến đấu.             Chiều 17, cuộc biểu tình của Tổng hội công chức bị viến thành cuộc mít tinh lớn của Việt Minh. Cờ đỏ sao vàng xuất hiện trên tầng hai Nhà hát Thành phố, đại biểu Việt Minh kêu gọi nhân dân đứng dậy giành chính quyền, lật đổ chính quyền bù nhìn Trần Trọng Kim. Như một tia lửa nhen lên từ cánh đồng cỏ khô, ngọn lửa cách mạng bùng cháy, cả Hà Nội bừng bừng khí thế đấu tranh theo lời kêu gọi của Đảng. Cuộc biểu tình chiều 17 làm cho kẻ thù càng thêm hoảng hốt. Trái lại, quần chúng cách mạng phấn chấn, ráo riết chuẩn bị khởi nghĩa. Sáng ngày 18, ủy ban khởi nghĩa của thành uỷ đã chuyển từ ngoại thành vào nhà số 101 Trần Hưng Đạo để trực tiếp chỉ đạo cuộc đấu tranh.Từ sáng ngày 19, hàng chục vạn nhân dân thành phố rầm rập tiến về Quảng trường Nhà hát lớn. Đúng 11 giờ trưa, cuộc mít tinh bắt đầu. Lời kêu gọi khởi nghĩa của Đảng được quần chúng đón mừng bằng những tiếng reo hò và những khẩu hiệu hô vang khắp quảng trường:           * Thành lập chính phủ Cộng hòa Dân chủ Việt Nam   
 * Việt Nam hoàn toàn độc lập           
* Đả đảo chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim.          
Cuộc mít tinh biến thành cuộc biểu tình tuần hành vĩ đại. Dòng người chia thành nhiều ngả, có các đội tự vệ chiến đấu dẫn đầu đi chiếm các công sở và chiếm lĩnh các vị trí xung yếu. Hai cánh cổng phủ khâm sai (nay là nhà khách chính phủ) đónh im ỉm. Đoàn biểu tình dừng lại, nhiều người vượt qua hàng rào sắt nhảy vào bên trong chiếm lấy trụ sở cơ quan đầu não của địch. Cờ đỏ sao vàng được kéo lên cao, phần phật tung bay trước gió. ở trại Bảo an ninh, bọn Nhật cho xe tăng và quân lính chặn các ngã đường. Nhưng chúng không thể ngăn cản được làn sóng người đang cuồn cuộn tiến bước, sẵn sàng đạp bằng mọi trở ngại. Tuy còn hàng vạn tên lính với vũ khí đây đủ, quân Nhật cũng phảI lùi bước. Nhân dân Hà Nội đã hoàn toàn làm chủ thành phố của mình Thắng lợi của cuộc khởi nghĩa ở Hà Nội đã cổ vũ tinh thần đấu tranh của toàn dân, thúc đẩy các nơi nổi dậy giành chính quyền. Cuốc khởi nghĩa ở Hà Nội có tác dụng mạnh mẽ đến phong trào cách mạng của cả nước. Cùng ngày 19, nhân dân các tỉnh Yên Bái, Thái Bình, Phú Yên, Thanh Hóa, Khánh Hòa nổi dậy giành chính quyền. Ngày 20, khởi nghĩa bùng nổ ở Bắc Ninh, Thái Nguyên, Ninh Bình. Ngày 21, các tỉnh Cao Bằng, Tuyên Quang, Sơn Tây, Nam Định, Kiến An, Nghệ An, Ninh Thuận lật đổ chính quyền phản động ở các địa phương.   Ngày 22, khởi nghĩa thắng lợi ở Hưng Yên, Quảng Yên. Ngày 23 tháng 8, thành phố Huế nổi dậy khởi nghĩa. Trên 15 vạn người xuống đường biểu tình, cùng các đơn vị tự vệ đi chiếm các công sở. Trước sức mạnh như nước vỡ bờ của cách mạng, tên vua phong kiến cuối cùng của triều Nguyễn là Bảo Đại phải xin thoái vị. Nền quân chủ chuyên chế hoàn toàn sụp đổ. Cùng với thắng lợi của Huế, ngày 23, các tỉnh Bắc Cạn, Hòa Bình, Hải Phòng, Hà Đông, Quảng Bình, Quảng Trị, Gia lai, Tân An, Bạc Liêu... nổi dậy giành chính quyền.  Ngày hôm sau, nhân dân Hà Nam, Phú Thọ, Đác Lác, Phú Yên, Bình Thuận, Gò Công, Mỹ Tho khởi nghĩa thắng lợi.Ngày 25 tháng 8, cả thành phố Sài Gòn sục sôi không khí khởi nghĩa. Từ đêm trước, hàng vạn công dân, nông dân và thanh niên các tỉnh Gia Định, Chợ Lớn, Mỹ Tho, Biên Hòa, Thủ Dầu Một... đều đổ dồn về Sài Gòn. Sáng 25, quần chúng cách mạng chiếm các sở công an, cảnh sát, nhà ga, bưu đIện cùng nhiều vị trí xung yếu khác trong thành phố. Quân Nhật hầu như không dám chống cự. Cuộc biểu tình của hơn một triệu người hoan nghênh ủy ban nhân dân Nam Bộ, hô vang khẩu hiệu " Việt Nam hoàn toàn độc lập", " Tất cả chính quyền về tay Việt Minh" đã đánh dấu thắng lợi của cuộc khởi nghĩa ở Sài Gòn. Cùng lúc với cuộc khởi nghĩa ở Sài Gòn, các tỉnh Lạng Sơn, Kon Tum, Đồng Nai Thượng, Chợ Lớn, Gia Định, Sóc Trăng, Long Xuyên, Vĩnh Long, Bà Rịa, Thủ Dầu Một, Châu Đốc, Trà Vinh, Tây Ninh, Biên Hòa, Bến Tre, Sa Đéc nổi dậy khởi nghĩa.Ngày 26, khởi nghĩa thắng lợi ở Hòn Gai, Sơn La, Cần Thơ.        Ngày 27, nhân dân nổi dậy giành chính quyền ở Rạch Giá, hôm sau ở Hà Tiên. Trong vòng 10 ngày từ 19 đến 28 tháng 8 hầu hết các tỉnh và thành phố đều nổi dậy khởi nghĩa. Bọn phát xít Nhật thua trận không dám hành động. Chế độ quân chủ bị lật đổ. Chính quyền trong cả nước hoàn toàn về tay nhân dân. Từ đó, ngày 19-8 đi vào lịch sử của dân tộc, là ngày khởi nghĩa của Hà Nội, ngày đánh dấu cao trào Tổng khởi nghĩa trong cả nước, ngày cách mạng Tháng tám thành công.